x

 

vnr500

BẢNG XẾP HẠNG NĂM 2018
VNR500

CÔNG TY CP VẬT TƯ NÔNG SẢN APROMACO

xếp thứ 156/500 Doanh nghiệp lớn nhất cả nước.

Chi tiết

 

Tiêu điểm

Năm đầu tiên tự túc và xuất khẩu phân bón

Sản xuất phân đạm urê trong nước sẽ vượt nhu cầu vào quý IV năm nay khi các dự án mới về sản xuất phân urê cùng đi vào hoạt động ổn định.

Cùng với phân urê, nguồn cung phân bón tổng hợp NPK các loại cũng đã vượt xa nhu cầu cần thiết, nên việc tìm kiếm thị trường mới để xuất khẩu chính là hướng đi tất yếu mang lại lợi ích “2 trong 1” cho các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước.

Chấm dứt nhập khẩu thất thường kéo dài

Tổng Thứ ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam (FAV) Nguyễn Hạc Thúy cho biết: Từ một nước phải phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu phân đạm urê để phục vụ sản xuất nông nghiệp, năm 2012 này, lần đầu tiên Việt Nam sẽ tự túc được hoàn toàn nhu cầu phân urê khi Nhà máy đạm Cà Mau của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) công suất 800 nghìn tấn/năm và Nhà máy Phân bón Ninh Bình của Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam (Vinachem) công suất 560 nghìn tấn/năm đi vào hoạt động, nâng tổng công suất đạm urê lên 2,36 triệu tấn , tăng hơn gấp đôi so với năm 2011 . Đến hết năm 2011, công suất đạm urê của cả nước đã đạt 1 triệu tấn; trong đó, Nhà máy đạm Phú Mỹ của Tổng Công ty Phân đạm và Hóa chất Dầu khí (PVFCCo) đóng góp 800 nghìn tấn/năm, Nhà máy đạm Hà Bắc (Vinachem) đóng góp 200 nghìn tấn/năm.

Điều này đồng nghĩa với việc tình trạng nhập khẩu thất thường kéo dài nhiều năm nay sẽ được chấm dứt khi nguồn cung urê vượt trên nhu cầu urê của cả nước từ 360-560 nghìn tấn/năm. Theo tính toán của FAV, nhu cầu urê năm 2012 chỉ khoảng 1,8 triệu tấn.

Không chỉ tự túc được nhu cầu sử dụng phân đạm urê cho sản xuất nông nghiệp, các doanh nghiệp sản xuất phân bón sẽ phải tìm thị trường xuất khẩu để tạo đầu ra cho sản xuất trong nước bởi theo dự kiến, sản lượng urê trong nước sẽ vượt qua mức 3 triệu tấn vào năm 2015. Nhà máy đạm Hà Bắc (Vinachem) đang triển khai dự án mở rộng đầu tư nâng công suất từ 200 nghìn tấn/năm hiện nay lên thành 500 nghìn tấn/năm vào năm 2015. Tập đoàn Công Thanh cũng đang tính toán đầu tư nhà máy sản xuất đạm với công suất khoảng 560 nghìn tấn/năm. Trong khi đó, nhu cầu urê cả nước trong những năm tới đây vẫn chỉ ở mức khoảng trên dưới 2 triệu tấn/năm.

Vì vậy, không phải đợi đến năm 2015 mà ngay từ cuối năm 2011, các doanh nghiệp sản xuất urê đã bắt đầu tìm kiếm thị trường xuất khẩu để giảm bớt áp lực cạnh tranh trong nước và có đầu ra ổn định cho hoạt động sản xuất.

Xuất khẩu thu lợi “2 trong 1”

Năm 2011, Vinachem đã xuất khẩu phân bón tổng hợp NPK các loại đạt 127 nghìn tấn, tăng 61,1% so với 2010. Vinachem cũng đang tập trung đầu tư mở rộng sản xuất phân bón để trở thành doanh nghiệp xuất khẩu các sản phẩm phân bón vào năm 2015 khi công suất đạm urê của Vinachem cán mốc 1,1 triệu tấn, công suất lân chế biến đạt 2 triệu tấn/năm, NPK đạt 4 triệu tấn/năm.

Giám đốc Công ty Phân bón Miền Nam – đơn vị thành viên của Vinachem Nguyễn Tấn Đạt cho biết: Với giá bán phân bón thấp hơn các nước khoảng 3-5%, năm 2011, sản lượng phân bón xuất khẩu của Công ty đã chiếm tới 24% sản lượng sản xuất và trong năm 2012, Công ty sẽ nâng con số này lên 30% để đảm bảo đầu ra ổn định cho sản xuất. Hiện các thị trường xuất khẩu chính của Công ty là Thái Lan và các nước Châu Phi; trong đó thị trường Châu Phi là thị trường tiềm năng cho xuất khẩu phân bón bởi nhu cầu tiêu thụ rất lớn. Riêng năm 2011, mặc dù mới tiến hành xuất khẩu thăm dò nhưng kim ngạch xuất khẩu của Công ty vào thị trường Châu Phi đã đạt 9 triệu USD. Ông Đạt cũng cho biết, thị trường Ôx-trây-li-a, Niu-Di-lân đang có nhu cầu lớn về phân bón không qua chế biến nên Công ty cũng đang tính toán đầu tư sản xuất để phục vụ xuất khẩu.

Chia sẻ về kinh nghiệm xuất khẩu, Tổng Giám đốc PVFCCo Cao Hoài Dương cho biết: Nắm bắt được xu hướng dư thừa đạm urê, ngay từ năm 2010 và 2011, Tổng Công ty đã tập trung vào công tác nghiên cứu, chuẩn bị thị trường. Cùng với việc cân đối để đảm bảo nhu cầu phân bón ở thị trường trong nước, PVFCCo đã bắt đầu có các hoạt động thăm dò xúc tiến thương mại để hình thành hệ thống phân phối đạm Phú Mỹ tại một số nước trong khu vực như Cam-pu-chia, Lào và Mi-an-ma. Tại Cam-pu-chia, PVFCCo đã thành lập chi nhánh để tiến hành các hoạt động kinh doanh phân bón và chuẩn bị thị trường cho công tác xuất khẩu sau này. Bên cạnh đó, năm 2011, PVFCCo đã ký kết biên bản ghi nhớ đặt quan hệ đối tác với những công ty thương mại phân bón quốc tế lớn như Mitsubishi, Sojitz và Transammonia về việc xuất khẩu phân đạm ngay khi nhu cầu trong nước đã được cung ứng đầy đủ.

Không chỉ tìm kiếm thị trường mở rộng xuất khẩu để tạo đầu ra ổn định cho sản xuất bởi kinh doanh phân bón chỉ mang tính chất mùa vụ, mở rộng xuất khẩu đối với Công ty Phân bón Bình Điền còn nhằm quảng bá và xây dựng thương hiệu phân bón Đầu Trâu của Công ty. Giám đốc Lê Quốc Phong chia sẻ: Năm 2011, xuất khẩu phân bón của Bình Điền vào Lào, Cam-pu-chia, Ôx-trây-li-a… tăng 62%, góp phần giúp sản xuất tăng trưởng 46%, lợi nhuận tăng 54% mà quan trọng hơn là giúp Thương hiệu phân bón Đầu Trâu của Công ty được xác lập tại các thị trường này. Mục tiêu của Công ty là xuất khẩu phải gắn với làm thương hiệu để có được thị phần vững chắc; không xuất khẩu cho các công ty nước ngoài đóng bao dưới thương hiệu khác như một số doanh nghiệp vẫn làm chỉ mong lấy kim ngạch, ông Lê Quốc Phong khẳng định.

Cần có chính sách hỗ trợ xuất khẩu

Mặc dù xuất khẩu phân bón là một hướng mở tiềm năng cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước, nhưng thị trường xuất khẩu phân bón của Việt Nam cũng bị cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm phân bón của Trung Quốc, Thái Lan, các nước Trung Đông, Nga. Vì vậy, bên cạnh việc mỗi doanh nghiệp sản xuất phân bón phải chủ động đầu tư cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng, giảm giá thành để tăng sức cạnh tranh, cũng như có chiến lược xây dựng thương hiệu thì sự hợp tác liên kết giữa các doanh nghiệp cùng ngành nghề sẽ rất cần thiết giúp doanh nghiệp thắng lợi ngay trên sân nhà và “sân người”. Việc liên kết có thể giữa các doanh nghiệp trong cùng một tập đoàn hoặc giữa các tập đoàn với nhau khi sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp này lại là sản phẩm đầu vào của doanh nghiệp khác. Ông Lê Quốc Phong chỉ rõ.

Đồng tình với quan điểm này, ông Nguyễn Tấn Đạt chia sẻ: Công ty Phân bón Miền Nam mỗi năm cần khoảng 300 nghìn tấn urê các loại làm nguyên liệu sản xuất phân bón tổng hợp. Vì vậy, nếu Vinachem xây dựng được các chính sách ưu tiên với các doanh nghiệp sử dụng ổn định, lâu dài các sản phẩm hóa chất cơ bản và chế biến sẽ mang lại lợi ích nhiều mặt.

Ông Đạt cũng cho biết: Thị trường Châu Phi đang có nhu cầu lớn về phân bón các loại nhưng xuất khẩu vào thị trường này cũng khá rủi ro cho doanh nghiệp, bởi các ngân hàng ở các nước Châu Phi không đảm bảo về thanh toán. Vì vậy, nếu Chính phủ Việt Nam ký được Hiệp định bảo đảm thanh toán với chính phủ các nước Châu Phi nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu không bị thiệt hại thì kim ngạch xuất khẩu phân bón vào Châu Phi có thể nâng lên rất cao.

Về phía Hiệp hội, Tổng Thư ký Nguyễn Hạc Thúy khẳng định: Giá phân bón phụ thuộc nhiều vào giá than và giá khí, giá quặng apatit, bởi đây là nguồn nguyên liệu và nhiên liệu đầu vào chủ yếu để sản xuất phân bón. Vì vậy, cùng với việc nghiên cứu chính sách giá bán nguồn nguyên nhiên liệu đầu vào này hợp lý đảm bảo lợi ích của các bên, Bộ Tài chính cần sớm có chính sách thuế xuất nhập khẩu phù hợp, tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp xuất khẩu phân bón.

Tin liên quan